Bệnh bại huyết hay còn gọi là nhiễm trùng huyết vịt là một bệnh truyền nhiễm trên vịt nuôi, ngỗng, gà tây và một số loài gia cầm khác do vi khuẩn Riemerella anatipestifer (RA) gây ra. Bệnh thường xảy ra ở thể cấp tính nhưng cũng có thể ở thể mạn tính.
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh bại huyết vịt do vi khuẩn RA gây ra, đây là một trực khuẩn gram âm, thuộc vào họ Flavobacteriaceae. Hiện nay có khoảng 21 type huyết thanh (serotypes) của vi khuẩn RA đã được tìm thấy. Ở mỗi nước thường có đặc trưng các serotype gây bệnh khác nhau. Tại Việt Nam các serotype 1, 6, 8, 10 và 20 serotype đã được tìm thấy; trong đó serotype 10 là phổ biến. Bên cạnh đó có rất nhiều chủng không xác định được serotype.
Loài mắc bệnh
Vịt là động vật mẫn cảm nhất với vi khuẩn RA, ngoài ra các loài khác như: ngan, gà tây, chim cút, thiên nga,…cũng có thể bị bệnh này.
Lứa tuổi mắc bệnh
Vịt ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh, nhưng vịt con từ 1 – 8 tuần tuổi là dễ bị bệnh nhất. Thời gian ủ bệnh tùy thuộc vào từng chủng khác nhau. Thông thường sau khi xâm nhập vào cơ thể sau 2 đến 5 ngày vịt bắt đầu phát bệnh và một số có thể chết sau 2 ngày nếu vịt bị nhiễm với chủng có độc lực cao. Tỷ lệ chết khoảng 5 đến 75%
Triệu chứng lâm sàng
Ban đầu vịt có triệu chứng đặc trưng ủ rủ, tiêu chảy phân xanh, thường có dịch tiết ở mắt và mũi, ho và hắt hơi nhẹ. Sau đó con vật có biểu hiện run đầu và cổ, mất khả năng vận động, tiến đến hôn mê và chết. Trong những trường hợp điển hình, vịt con bị ảnh hưởng ở giai đoạn cuối của bệnh nằm ngửa, khua chân. Tình trạng còi cọc có thể xảy ra ở những con sống sót.
Bệnh tích
Gan và lách sưng viêm, gan bị tổn thương; màng tim bị viêm, bao tim viêm có sợi tơ huyết, màng bao tim màu trắng đục, có dịch thẩm xuất màu vàng. Viêm sưng khớp, đôi khi bị mòn sụn khớp; viêm túi khí xơ hóa và nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương có thể dẫn đến viêm màng não xơ hóa. Viêm phổi có thể xảy ra.
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán lâm sàng: có thể căn cứ vào một số triệu chứng, bệnh tích sau để chẩn đoán bệnh:
Vịt bị bệnh thường có các triệu chứng sau:
– Vịt tiêu chảy: vịt tiêu chảy phân xanh xám
– Triệu chứng hô hấp: Sốt, ủ rũ, chảy nước mắt, nước mũi, khó thở
– Triệu chứng thần kinh: có thể sưng phù đầu, ngoẹo cổ, đầu cổ bị run. Viêm khớp vịt đi lại khó khăn. Dễ bị kích động, hai chân duỗi ra như bơi.
Bệnh tích
– Gan và lách sưng viêm, gan bị tổn thương
– Màng tim bị viêm, bao tim viêm có sợi tơ huyết, màng bao tim màu trắng đục, có dịch thẩm xuất màu vàng.
Chẩn đoán phân biệt bệnh nhiễm trùng huyết với một số bệnh khác ở vịt:
Bệnh tụ huyết trùng do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra
Mắc ở mọi lứa tuổi. Thường chết đột ngột khi chưa có triệu chứng. Triệu chứng có thể thấy là sốt cao, bỏ ăn, thở khó, lười vận động. Tiêu chảy phân trắng có thể kèm theo nhớt.
Bệnh tích đặc trưng: Gan có các điểm hoại tử nhỏ li ti bằng đầu đinh ghim, có màu trắng xám hoặc vàng nhạt; Phổi, gan, lách ruột xuất huyết; Bao tim tích nước vàng; Cơ tim và lớp mỡ vành tim xuất huyết.
Bệnh do vi khuẩn E.coli gây ra
Thường biểu hiện không rõ, lúc đầu sốt, sau giảm dần. Khi bị nặng, thủy cầm tiêu chảy, phân màu vàng, xanh lẫn nhiều bọt khí. Thủy cầm đẻ: giảm đẻ, gầy ốm và thường kèm theo chứng sưng khớp.
Bệnh tích đặc trưng: Viêm màng bao tim, viêm màng bụng, viêm màng quanh gan. Ngoài ra, còn thấy viêm đường ruột, viêm túi khí. Thủy cầm đẻ còn thấy viêm, hoại tử buồng trứng.
Bệnh do vi khuẩn Salmonella gây ra
Mắc chủ yếu dưới 3 tuần tuổi. Tiêu chảy phân trắng, dính bết vào lỗ huyệt. Có thể có viêm khớp.
Bệnh tích đặc trưng: Không tiêu lòng đỏ. Viêm bao tim. Xoang bao tim tích nước nhày, màu vàng. Viêm xoang bụng, có thể dính với các cơ quan khác.
Bệnh viêm gan vịt
Mắc ở vịt dưới 6 tuần tuổi, chủ yếu từ 1 đến 3 tuần tuổi. Vịt có triệu chứng thần kinh, đi liêu siêu hoặc bị ngã, khi nằm thì hai chân co giật.
Bệnh tích đặc trưng: Vịt chết: hai chân duỗi thẳng như bơi chèo, đầu ngửa hết về phía sau. Gan sưng, nhũn, dễ nát khi ấn nhẹ. Bề mặt gan có nhiều điểm xuất huyết lan rộng không ranh giới. Viêm màng bao tim, cơ tim nhạt màu
Chẩn đoán phi lâm sàng: nuôi cấy và phân lập vi khuẩn; định danh vi khuẩn RA bằng phương pháp PCR
Phòng bệnh:
Thường xuyên vệ sinh chuồng nuôi, máng ăn, máng uống, dụng cụ chăn nuôi trước, trong và sau khi nuôi vịt. Sử dụng các loại thuốc sát trùng để định kỳ sát trùng chuông nuôi, máng ăn, máng uống, các dụng cụ chăn nuôi.
Bổ sung thêm các loại vitamin, khoáng cho vịt, đặc biệt là ở vịt con 1 đến 4 tuần tuổi.
Sử dụng vắc-xin để phòng bệnh cho đàn gia cầm là biện pháp hiệu quả nhất.
Trị bệnh
Cách ly hoàn toàn những con có triệu chứng bệnh để tiến hành điều trị sớm.
Có thể sử dụng một số loại kháng sinh để điều trị như: Amoxicillin/clavulanic acid, Ceftiofur.
Cũng có thể sử dụng các loại kháng sinh trên để phòng bệnh cho những con có nguy cơ. Liều dùng, đường sử dụng tùy thuộc vào từng nhà sản xuất.
Lê Đình Hải